Cỡ lớn nhất trong họ sóc bay. Có màng đuôi. Đuôi tròn xù. Cơ thể màu nâu hung thẫm, đồng màu trừ lông trên mũi, cằm và vành mắt có màu đen. Lông vành tai hung. Gốc lông ở lưng xám thẫm, chóp lông nâu hung. Bụng màu nâu hung nhạt. Chân và đuôi nâu đen. Bàn chân sau đen. Đuôi dài hơn thân, gốc lông màu nâu, chóp màu trắng.
Sọ lớn. Xương mũi hơi rộng ở phía trước. Xương trán rộng, lớn hơn 1/5 chiều dài chẩm mũi và thường hơi thẳng. Phần sau ổ mắt phát triển và lồi, chồi ổ mắt nhọn gần như thẳng góc với trục giữa xương trán. Chẩm mũi dài không quá 90mm. Gờ xương đỉnh chạy về phía sau từ đỉnh của xương chẩm tới phía sau của mấu sau ổ mắt. Cung gò má thấp. Xương chẩm thấp. Lỗ khẩu cái ngắn, cách xa dãy răng hàm và nhỏ. Xương khẩu cái rộng. Bầu nhĩ lồi, có vách ngăn chẻ đôi ở bên trong. Dãy răng hàm to, mặt nhai phức tạp, có nếp khúc khuỷu, thiếu phần lõm trung tâm. Răng cửa màu đỏ, khá hẹp và phẳng. Răng trước hàm Pm4 nhỏ.
Kích thước:
- Dài đầu và thân: 446 – 490 mm
- Dài bàn chân sau: 94 – 105 mm
- Dài đuôi: 580 – 635 mm
- Cao tai: 40 – 45 mm
- Trọng lượng: 1,3 – 2,7 kg
Phân bố:
Việt Nam: Loài này được ghi nhận trong các khu rừng từ Bắc vào Nam ở độ cao trên 200m.
Thế giới: Ấn Độ, Nepal, Xrilanca, Mianma, Trung Quốc, Thái Lan, Malayxia, Inđônêxia và Đông Dương.
Giá trị sử dụng: Sóc bay trâu liên quan đến sự phát tán hạt trong rừng. Sóc có giá trị làm cảnh và xuất khẩu. Hiện nay, loài này đang bị đe doạ do sự săn bắn và nơi ở của chúng bị thu hẹp do chặt phá rừng.